- Cơ sở pháp lý
Khoản Điều 3.1 Luật Thương mại 2005: Giải thích từ ngữ
Điều 25.1 Luật Sở hữu trí tuệ: Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả
Điều 27.2 Luật SHTT: Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Điều 43 Luật SHTT: Tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng thuộc về công chúng
Điều 2 Nghị định 131/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan: Quy định khung phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức
Điều 13 Nghị định 131/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan: Hành vi xâm phạm quyền cho phép biểu diễn tác phẩm trước công chúng
(Nội dung chi tiết các quy định này được trích dẫn phía dưới)
- Nội dung trả lời
Chương trình văn nghệ của công ty có thể coi là buổi “Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động”, theo quy định tại Điểm g Điều 25.1, các chương trình văn nghệ này không nhằm mục đích thương mại mới thuộc trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền.
Trong khi đó, chương trình văn nghệ của công ty có thể mang tính chất quảng bá thông tin, truyền thông sự kiện của công ty và mang yếu tố thương mại, truyền thông doanh nghiệp, do đó vẫn có mục đích thương mại và không thuộc ngoại lệ tại Điều 25 nêu trên.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Chương trình văn nghệ là sự kiện do công ty tổ chức để quảng bá thông tin, truyền thông thương hiệu, có yếu tố xúc tiến thương mại, nhằm củng cố hình ảnh và uy tín doanh nghiệp trên thị trường. Mục tiêu cuối cùng là tăng nhận diện, thu hút khách hàng, đối tác, nhà đầu tư, tức là hướng đến sinh lợi gián tiếp. Do đó, chương trình văn nghệ của Công ty thuộc phạm vi hoạt động thương mại, không thể coi là ngoại lệ “sinh hoạt văn hóa” hay “hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại” tại Điều 25 Luật SHTT.
Bên cạnh đó, để biết các tác phẩm (bài hát) trong chương trình văn nghệ có cần xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả/ chủ sở hữu hay không, cũng cần xét đến thời hạn bảo hộ của từng bài hát:
- Trong trường hợp bài hát đã hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả theo Khoản 2 Điều 27 Luật SHTT (bảo hộ suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời), bài hát sẽ thuộc về công chúng theo Điều 43 Luật SHTT.
Theo đó, tổ chức, cá nhân đều có quyền sử dụng các bài hát thuộc về công chúng, và phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả (ghi tên tác giả, không cắt xén, xuyên tạc tác phẩm).
- Trong trường hợp bài hát đang trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả, tổ chức/ cá nhân khi sử dụng cần phải xin phép và có trả tiền bản quyền cho tác giả và chủ sở hữu.
Tổ chức cá nhân sử dụng tác phẩm sẽ trả tiền bản quyền theo thỏa thuận hoặc thông qua các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả VCPMC (Trung tâm bảo vệ Quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam).
KẾT LUẬN: Nếu bài hát còn trong thời hạn bảo hộ thì phải xin phép và trả tiền bản quyền. Nếu đã hết thời hạn, công ty được quyền sử dụng và phải tôn trọng quyền nhân thân của tác giả.
RỦI RO SỬ DỤNG:
Trường hợp Công ty vẫn sử dụng các bài hát đang còn thời hạn bảo hộ trong chương trình văn nghệ mà không có sự cho phép, có thể tiềm ẩn các rủi ro như sau:
Rủi ro xử lý hành chính:
- Có thể bị tác giả hoặc tổ chức VCPMC lập biên bản và yêu cầu nộp phí bản quyền vì mở nhạc/tác phẩm âm nhạc do VCPMC quản lý trong sự kiện mà chưa xin phép.
- Cơ quan thanh tra VHTTDL lập biên bản và xử lý hành chính về vi phạm quyền tác giả.
- Việc đăng tải các bản ghi âm, ghi hình lên mạng xã hội có thể bị xử lý vi phạm bản quyền.
Rủi ro về truyền thông:
- Bị gỡ/bị chặn nội dung: Bị yêu cầu gỡ video/ghi âm/ghi hình làm mất toàn bộ nội dung truyền thông đã đầu tư.
- Tin xấu: Báo chí hoặc mạng xã hội có cái nhìn tiêu cực, ảnh hưởng chiến dịch truyền thông hiện tại của Công ty.
Rủi ro về hình ảnh:
- Bị công chúng đánh giá thiếu chuyên nghiệp, không tuân thủ pháp luật;
- Ảnh hưởng đến quan hệ với các đối tác, khách hàng.
Rủi ro uy tín dài hạn:
- Ảnh hưởng thương hiệu: Một vụ việc có thể làm xói mòn thương hiệu tích lũy nhiều năm.
- Khó thu hút nhân tài: Ứng viên/nhân viên chất lượng tránh xa môi trường bị coi là thiếu chuyên nghiệp.
- Bị giám sát chặt hơn: Bị cộng đồng mạng, công chúng theo dõi mọi hoạt động truyền thông tiếp theo.
CHẾ TÀI XỬ PHẠT:
** Chế tài xử lý vi phạm hành chính theo Điều 13 Nghị định 131/2013/NĐ-CP về hành vi biểu diễn trực tiếp tác phẩm trước công chúng mà không được phép của chủ sở hữu, cụ thể như sau:
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng
- áp dụng cho hành vi biểu diễn trực tiếp tác phẩm trước công chúng mà không được phép.
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
- áp dụng cho hành vi biểu diễn gián tiếp (thông qua ghi âm, ghi hình, phát sóng, hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được) mà không được phép.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
- Buộc dỡ bỏ bản sao bản ghi âm, ghi hình vi phạm đối với hành vi biểu diễn tác phẩm thông qua chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào.
- Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ hành vi vi phạm (theo Điều 3 Nghị định 131/2013/NĐ-CP, áp dụng chung cho tất cả hành vi xâm phạm quyền tác giả).
- Như vậy, nếu Công ty biểu diễn các ca khúc trong chương trình văn nghệ mà không xin phép, có thể bị xử phạt đến 30 triệu đồng/ 1 ca khúc và buộc gỡ bỏ toàn bộ bản ghi hình, ghi âm liên quan đến chương trình.
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC:
- Lập danh sách các ca khúc dự kiến sử dụng, tra cứu tình trạng bảo hộ (còn hay hết thời hạn – dựa vào nguồn tìm kiếm google để xác định thời điểm qua đời của tác giả đó).
- Với các ca khúc còn thời hạn bảo hộ, cần:
+ Xin phép tác giả/chủ sở hữu, hoặc
+ Ký hợp đồng/trả phí thông qua tác giả hoặc tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả VCPMC.
- Phương án vẫn sử dụng mà không xin phép/trả tiền bản quyền:
+ Tôn trọng quyền nhân thân của tác giả: Khi giới thiệu bài hát cần ghi rõ tên tác giả để tránh vi phạm quyền nhân thân của tác giả;
+ Không phát tán, không đăng tải các video/ghi âm, ghi hình biểu diễn trên YouTube, mạng xã hội hoặc các kênh truyền thông công khai;
Lưu ý: Biện pháp này không loại trừ rủi ro vi phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp bị khiếu kiện, Công ty có thể có cơ sở để thương lượng, giảm nhẹ mức bồi thường hoặc phí cấp phép.
- Công ty có thể cân nhắc lựa chọn các bài hát đã hết thời hạn bảo hộ thuộc về công chúng để được quyền sử dụng, tránh phát sinh thủ tục xin phép và phải trả phí bản quyền.
————————-
Điều 3. Giải thích từ ngữ
- Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Điều 25: Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả
- Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:
- a) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
- b) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
- c) Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;
- d) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;
đ) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;
- e) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;
- g) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;
- h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;
- i) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;
- k) Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;
- l) Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;
- m) Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm theo quy định tại Điều 25a của Luật này.
Điều 27: Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
- Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:
- a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;
- b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
- c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Điều 43. Tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng thuộc về công chúng
- Tác phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật này và cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã kết thúc thời hạn bảo hộ theo quy định tại Điều 34 của Luật này thì thuộc về công chúng.
- Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng quy định tại khoản 1 Điều này nhưng phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả, người biểu diễn quy định tại Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 2. Quy định khung phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức
- Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan đối với cá nhân là 250.000.000 đồng, đối với tổ chức là 500.000.000 đồng.
- Khung phạt tiền quy định tại Chương II Nghị định này là khung phạt tiền áp dụng đối với cá nhân, trừ trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 5; Khoản 1 và Điểm b Khoản 2 Điều 7 Nghị định này. Đối với cùng một hành vi vi phạm, khung phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần khung phạt tiền đối với cá nhân.
Điều 13. Hành vi xâm phạm quyền cho phép biểu diễn tác phẩm trước công chúng
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi biểu diễn trực tiếp tác phẩm trước công chúng mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định.
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi biểu diễn tác phẩm thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định.
- Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc dỡ bỏ bản sao bản ghi âm, ghi hình vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 2 Điều này.